Nói thật là khu vực Baltic chưa bao giờ là vùng đất ưa thích của tôi. Nguyên nhân chính cũng là do hình ảnh của vùng này qua mờ nhạt trong con mắt tôi và ngay cả số lượng các đầu sách hay cẩm nang du lịch cũng nói lên điều đó. Tôi còn nhớ thời điểm săn tìm tài liệu ở nhiều thư viện thành phố ở Paris, quả thực là không dễ dàng. Nhưng cuối cùng, có 2 nguyên nhân khiến tôi quyết định chọn dành gần 10 ngày đặt chân đến vùng này : thứ nhất cả Estonia, Litva và Latvia đều đã gia nhập khối Schengen năm 2004 nên tôi không mất visa, thứ 2 có tuyến bay giá rẻ của Ryanair và Easyjet.
Khu vực biển Baltic là một ví dụ điển hình chứng minh cho tiêu chí du lịch của tôi. Tôi rất hiếm khi đi hẳn một lèo thăm nhiều quốc gia một lúc. Điều đó chỉ xảy ra khi tôi chủ ý muốn kết hợp thăm những quốc gia đó để phục vụ cho việc tìm hiểu sâu hơn về một khía cạnh kiến thức nào đó. Trong trường hợp của các quốc gia Baltic, mục đích khám phá của tôi trước hết là về mặt địa lý. Các bạn hãy tưởng tượng một trò chơi puzzle xếp các mảnh vỡ và Châu Âu là một bức tranh hoàn chỉnh. Bức tranh puzzle của tôi còn một số chỗ hổng và trong đó có một lỗ to đùng nằm giữa Phần Lan, Nga và Ba Lan. Mục đích thứ hai là về văn hóa, tôi chỉ biết qua là vùng Baltic trong qua khứ luôn là lãnh thổ chịu sự đô hộ của nhiều nền văn hóa khác nhau : Ba Lan, Đức, Nga, đủ cả. Câu hỏi mà tôi đặt ra là sau gần một thiên niên kỷ bị áp đặt văn hóa như vậy, suy cho cùng, đâu là nền văn hóa hiện nay của 3 quốc gia. Đọc sách thì quả thật hơi khó mường tượng. Phải đến trực tiếp và cảm nhận, chỉ có vậy mới giúp tôi hiểu thấu đáo vấn đề.
Việc cả 3 quốc gia Estonia, Litva và Latvia thường được gộp vào thành một cái tên chung « các quốc gia Baltic » có thể có lý do riêng của nó. Cả 3 quốc gia anh em này đều có điểm chung là nằm ven biển Baltic và trong suốt qua trình lịch sử từ khi khai sinh lập địa, cả 3 đều luôn phải chịu đựng sự đô hộ của các thế lực vây quanh như Đức, Ba Lan, Thụy Điển, Đan Mạch và Nga. Cả 3 quốc gia Baltic đều sinh ra vào thế kỷ 12 sau CN vào thời điểm xuất hiện hệ thống thương mại Hanse. Nói chính xác hơn, Hanse là liên minh tập hơn gần 30 thành phố cảng ven các vùng biển Baltic và Bắc Âu với nhiệm vụ là đoàn kết để trở thành một hiệp hội kinh tế đủ lớn để giao lưu với các khu vực khác của Châu Âu đặc biệt là Địa Trung Hải. Nằm kẹp giữa Ba Lan phía tây và Nga phía Đông, 3 quốc gia Baltic tuy có lợi thế gần biển nhưng lại không có may mắn như những thành phố cảng khác trong khu vực. Họ luôn phải đề phòng sự tấn công của nhiều thế lực xung quanh, không phải cướp biển thì cũng là sức ép từ phía Đan Mạch hoặc những cuộc tấn công của người Phổ trong suốt thời Trung Cổ. Từ thời trung cổ đến thế kỷ 20, chưa bao giờ các lãnh thổ khu vực này được hưởng giây phút độc lập hoàn toàn, không bị người Ba Lan phía tây sát nhập vào vương quốc của họ thì cũng bị người Nga phía Đông sở hữu lại. Cái mà tôi hay bất cứ du khách nào đến đây phải thán phục, đó là ý chí dân tộc và chủ quyền của họ. Bất chấp sự đô hộ vài trăm năm của các thế lực láng giềng, họ đã biết cách lĩnh hội các nét văn hóa nước ngoài kết hợp với truyền thống địa phương để tạo ra một nền văn hóa mới hết sức độc đáo. Đến thăm 3 quốc gia Baltic, tôi bị ấn tượng ngay bởi sự pha trộn giữa 3 nền văn hóa xưa kia đã từng là kẻ đô hộ trên quốc gia của họ : slavơ (đến từ Nga và Ba Lan) , giéc-manh (đến từ Đức) và scandinavia (đến từ Đan Mạch và Thụy Điển).
Hành trình của tôi bắt đầu từ đất nước Lituania. Hãng hàng không Ryanair oái oăm không thiết lập đường bay thẳng từ Paris đến thủ đô Vilnius mà lại đặt đại bản doanh ở thành phố Kaunas cách đó đến gần 100km. Đã thế, giờ giấc thì cực xấu đến nơi thì cũng đến nửa đêm. Nhưng mà thôi, giá rẻ thì chỉ được vậy thôi. Ra khỏi sân bay thì tôi thấy sẵn một biệt đội ô tô chờ sẵn để đón khách đi Vilnius, chắc cũng chỉ đợi chuyến bay của tôi vì đây là chuyến bay cuối cùng. Thế là mất đứt ngày đầu tiên.
Buổi sáng hôm sau, tôi háo hức tiến hành cuộc khám phá Vilnius nhưng khá bất ngờ với quy mô khiêm tốn của thủ đô. Dân số nước này cũng chỉ xấp xỉ 2 triệu, ấy thế mà trong quá khứ, đất nước Lituania là một lãnh thổ rộng lớn (có lúc kéo đến tận nước Ucraina và Belarus) và là một công quốc độc lập trong vòng 500 năm. Theo sổ sách, Lituania là đất nước có bề dày lịch sử lâu đời hơn so với Estonia và Latvia. Ngay từ thế kỷ 13 sau CN, tòa thánh Vatican đã công nhận Lituania là một vương quốc theo đạo thiên chúa và chịu ảnh hưởng của nền văn minh Châu Âu. Khoảng thời gian từ 13 đến 16 là thời kỳ phồn thịnh nhất của quốc gia này khi công quốc Lituania xát nhập nhiều lãnh thổ xung quanh trong đó có Ba Lan, Ucraina và Belarus và trở thành vương quốc rộng nhất của Đông Âu. Đó là những gì tôi đọc được trong cẩm nang du lịch nhưng phải nói thật là tôi không mấy ấn tượng với những gì còn lại ngày nay, có lẽ là vì đất nước Lituania nói riêng và các quốc gia Baltic nói chung đã phải chịu quá nhiều tàn phá trong vòng vài trăm năm đấy tranh để bảo vệ chủ quyền.
Lại nói về vấn đề chủ quyền, đặt chân đến xứ sở Baltic, tôi đã học thêm nhiều điều về bộ mặt thật của nước Nga với cái quá khứ xã hội chủ nghĩa thối nát của chúng. Giáo trình lịch sử của Việt Nam quá đỗi tung hô nước Nga như một vị anh hùng đánh bại chủ nghĩa phát xít. Thế nhưng càng đi thăm các quốc gia thuộc xã hội chủ nghĩa cũ bao nhiêu (Ba Lan, Estonia, Lituania, Latvia, Romania, Hungary, Cộng Hòa Séc, Slovakia) thì tôi càng thấy bọn Nga đáng khinh thường bấy nhiêu. Để dễ so sánh, Việt Nam ta ghét bọn Trung Quốc thế nào thì nước Lituania nói riêng và các nước Trung Âu nói chung ghét bọn Nga như thế. Nếu nói trắng ra, trong con mắt các quốc gia này, Nga chính là « phát xít » phiên bản bêta. Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, thoát khỏi thằng Đức sau gần 6 năm chịu khổ trong thế chiến thứ hai, họ lại rơi vào cảnh bị « ông anh cả » Nga áp bức trong vòng vài chục năm cho đến khi bức tường Berlin sụp đổ năm 1989.
Hễ một thành phố nào có bề dày lịch sử hơn 500 năm thì ngay lập tức sẽ có những câu chuyện thú vị xoay quanh sự khai sinh của nó. Vilnius không nằm ngoại lệ. Tại đỉnh ngọn đồi Gedimino, trái tim của thủ đô, đã xảy ra một sự tích với kiểu cách giống như chuyện vua Lý Thái Tổ cho rời đô về Thăng Long. Truyền thuyết kể rằng quận công Gediminas đã ngủ mơ thấy một con sói bằng sắt khổng lồ xuất hiện trên đỉnh một ngọn đồi và cất tiếng rú như thể có hơn 100 con sói đang rú.
Khi tỉnh dậy lúc bình minh, quận công kể lại giấc mơ cho một vị tu sĩ và ông này nói rằng đó là điềm báo rằng Gedimino sẽ trở thành nhà lãnh đạo của một vùng đất rộng lớn và cần phải cho xây một pháo đài trên đỉnh ngọn đồi nơi con sói cất tiếng rú. Đó là nguồn gốc của ngọn đồi Gedimino. Vị quận công Gediminas đăt tên thủ đô là Vilnius, phỏng theo tên con sông Vilnia chảy dọc thành phố. Ngày nay, chiếc pháo đài hình bát giác vẫn ngự trị ngọn đồi mang tên vị quận công trước kia. Từ đỉnh đồi có thể nhìn thấy toàn cảnh thành phố Vilnius với những nóc nhà ngói đỏ và những ngôi nhà tường nhiều màu.
Khi xuống đồi rồi, tôi bắt đầu chuyến khám phá trung tâm thành phố Vilnius. Thành phố nói chung là nhỏ, chỉ bằng quận Ba Đình của Hà Nội nên tôi chỉ mất một buổi sáng là coi như thăm được hết. Không quá khó để xác định phương hướng vì quanh đi quẩn lại cũng chỉ có một vài trục đường chính trong đó có đường Pilies, được coi như đại lộ Champs-Elysees của Vilnius với rất nhiều quán càphê tấp nập. Xưa kia, hoàng gia và các phái đoàn đi sứ đều dùng con đường này để đến lâu đài hoàng gia. Khi tỉnh dậy lúc bình minh, quận công kể lại giấc mơ cho một vị tu sĩ và ông này nói rằng đó là điềm báo rằng Gedimino sẽ trở thành nhà lãnh đạo của một vùng đất rộng lớn và cần phải cho xây một pháo đài trên đỉnh ngọn đồi nơi con sói cất tiếng rú. Đó là nguồn gốc của ngọn đồi Gedimino. Vị quận công Gediminas đăt tên thủ đô là Vilnius, phỏng theo tên con sông Vilnia chảy dọc thành phố. Ngày nay, chiếc pháo đài hình bát giác vẫn ngự trị ngọn đồi mang tên vị quận công trước kia. Từ đỉnh đồi có thể nhìn thấy toàn cảnh thành phố Vilnius với những nóc nhà ngói đỏ và những ngôi nhà tường nhiều màu.
Tuy sinh ra từ rất sớm vào thời trung cổ nhưng những di tích từ thời kỳ này không còn mấy. Chỉ lác đác đây đó những bức tường thành đánh dấu rõ biên giới giữa nội thành và ngoại thành.
Nếu như trước kia có 9 cổng thành thì ngày nay chỉ còn lại đúng một cái có tên là Gate of Dawn, không còn giá trị gì về mặt quân sự nhưng lại trở nên nổi tiếng nhờ chứa bức ảnh của đức mẹ đồng trinh Maria. Người ta nói rằng bức ảnh này rất linh thiêng, trong quá khứ đã từng là thần hộ mệnh giúp cho Vilnius đánh lui được biết bao nhiêu cuộc xâm lăng của các thế lực xung quanh.
Toàn bộ khu phố cổ của Vilnius đều được Unesco công nhận là di sản văn hóa thế giới. Định nghĩa « phố cổ » ở đây, về mặt địa lý, rộng hơn so với khu phố cổ vốn dĩ tồn tại từ thời trung cổ bị giới hạn trong vành đai tường thành. Khu phố cổ mà Unesco công nhận còn bao gồm một phần ngoại ô, trong đó đáng kể nhất là khu phố Uzupis, được mệnh danh như là « nước cộng hòa » của dân nghệ sĩ. Uzupis có quốc ca riêng, bộ máy chính quyền riêng, tổng thống riêng ! Khu phố còn có cả « quân đội » riêng với…12 người. Nghe như kiểu Vatican giữa lòng nước Ý.
Trung tâm phố cổ của Vilnius còn sót lại khá nhiều tòa nhà tráng lệ, chứng minh cho một quá khứ hào hùng của một thành thị được coi là trung tâm thương mại một thời của Đông Âu. Vậy, điều gì khiến Vilnius giàu có ? Đó chính là nhờ ngành công nghiệp khai thác và xuất khẩu đá amber, một loại đá quý chỉ có ở ven biển Baltic. Nếu nối lại chuyến viếng thăm thành phố cảng Gdansk (Ba Lan) năm 2005 thì tôi đã hiểu rõ hơn phần nào về loại đá quý này.
Hầu như ở bất cứ nơi nào đã từng trao đổi buôn bán mặt hàng này thì ngày nay đều có một viện bảo tàng giải thích lịch sử phát triển của nó. Tại Vilnius cũng vậy. Đá amber có nguồn gốc từ nhựa thông ở thềm đáy biển Baltic và trải qua nhiều triệu năm hóa thạch chuyển hóa thành đá cứng có màu giống mật ong và trong suốt. Vào thời kỳ trung cổ, đây là một mặt hàng xa xỉ giúp cho nhiều thành phố ven biển Baltic phất lên, trong đó có Vilnius. Viện bảo tàng Amber Museum Gallery ở Vilnius có một gian trưng bày các sản phẩm đá amber rất đẹp mắt
Cũng tại khu trung tâm này, tôi khám phá ra một nét lịch sử khác khá thú vị : Vilnius xưa kia là một nơi đón nhận cộng đồng Do Thái lớn nhất Châu Âu chỉ đứng sau Jerusalem. Chính vì lý do này mà Vilnius được mệnh danh là « Jerusalem của phương Bắc ». Trước chuyến đi đến đây, tôi luôn lầm tưởng rằng Ba Lan mới là quốc gia có cộng đồng do thái lớn nhất Châu Âu, có lẽ là do nhầm lẫn với số lượng người bị giết ở trại tập trung Auswitz. Theo số liệu thống kê, trước thế chiến thứ hai, dân số gốc do thái ở thủ đô Vilnius chiếm đến 40% tức là khoảng 100.000 người. Số lượng nhà thờ do thái thì nhiều vô kể, gần như cứ một con phố thì có đến gần 10 cái. Hồi ấy, tiếng do thái được sử dụng rất phổ biến ở thủ đô và là một trong những ngoại ngữ chủ đạo.
Thế nhưng trong thế chiến thứ hai, người do thái nơi đây đã chịu cảnh tàn sát của Đức quốc xã để rồi chỉ còn lại vỏn vẹn gần 5000 người ngày nay. Khu phố này giúp tôi hiểu rõ hơn phần nào định nghĩa của dân tộc do thái, một điều không phải đơn giản. Người ta thường thì chỉ biết nhiều hơn về những giai đoạn tăm tối của dân tộc do thái thời kỳ thế chiến thứ hai, khi mà phát xít Đức bắt bớ và dồn họ ở những trại tập trung rồi giết hại họ.
Thế nhưng không có nhiều thông tấn xã nói về giai đoạn sinh sống của dân tộc này trước đó. Tại Vilnius, ngay từ thế kỷ 16 thì cộng đồng do thái đã sinh sống rất đông, thậm chí còn được quận công Lituania đặc ân lập hẳn một khu phố giữa lòng thủ đô. Thế nhưng họ đã bị Đức quốc xã giết hại 90%. Sau khi Đức quốc xã cho giết hầu hết, những ngôi nhà còn sót lại thì bị liên bang Xô Viết phá hủy vào những năm sau thế chiến thứ hai.
Cái này thì cũng không chỉ riêng nước Lituania và là tình cảnh trung của phần lớn lãnh thổ ven rìa Liên Bang Nga. Giới chóp bu đảng xã hội chủ nghĩa không khoái những gì liên quan đến tôn giáo (thiên chúa giáo hay đạo do thái) nên đàn áp hết, bao gồm cả cộng đồng thiên chúa ngay trong lòng nước Nga. Những gì còn lại của di sản văn hóa do thái tại Vilnius gần như là con số không ngoài lèo tèo mấy cái đài tưởng niệm và một nhà thờ do thái. Ngần ấy là không đủ để tôi có thể mường tượng ra tầm quan trọng của cộng đồng này trong quá khứ.
Nếu tổng kết ấn tượng đầu tiên của tôi về thành phố Vilnius, có thể nói rằng tôi không thấy có nhiều ảnh hưởng của văn hóa Nga. Ngược lại, về mặt kiến trúc, tôi lại thấy có nét gì đó rất giống một thị trấn văn hóa Đức thời trung cổ. Sở dĩ tôi có cảm nhận này vì năm 2005, tôi đã từng khám phá miên bắc Ba Lan và ở đó cũng có một số công trình kiến trúc đặc trưng kiểu Đức thời trung cổ, ví dụ như thành phố cảng Gdansk hay pháo đài Malbork. Người Đức xưa kia cũng đã từng nắm giữ Lituania vào cùng thời kỳ, có thể ảnh hưởng kiến trúc bắt nguồn từ thời kỳ đó. Cảm nhận của tôi càng rõ nét hơn khi thăm lâu đài Trakai, cách thủ đô Vilnius chỉ tầm 30km với kiểu xây dựng bằng gạch nung, đúng là kiểu Đức trung cổ.
Với nhiều tuyến xe bus, không khó để đến được nơi từng được cho là thủ đô thứ hai của Lituania. Được xây dựng vào thế kỷ 15 với mục đích làm tấm bình phong bảo vệ thủ đô Vilnius, lâu đài Trakai sau đó trở thành nơi ở thường trực của nhiều thế hệ quận công Lituania và nhờ thế trở thành một trung tâm chính trị quan trọng thứ hai chỉ sau thủ đô.
Khi mà đất nước Lituania bị sát nhập vào đế chế nga hoàng thì cũng là lúc lâu đài Trakai bị rơi vào quên lãng và xuống cấp trầm trọng. Những gì mà chúng ta nhìn thấy ngày nay là thành quả của công cuộc trùng tu lâu đài từ những năm 1950. Nếu không có sự can thiệp kịp thời của chính phủ Lituania, có lẽ Trakai chỉ còn là một đống gạch vụn. Theo nhiều nguồn thông tin, Trakai là điểm hút khách tham quan thứ hai của cả nước. Nói thành thật, nếu mà để đem ra so sánh với rất nhiều lâu đài tôi đã từng thăm trước đó ở nhiều quốc gia Châu Âu, Trakai không thể so bì được, cả về thâm niên, độ hoành tráng cũng như sự tinh hoa nghệ thuật. Tuy nhiên, nếu nhìn vào đất nước Lituania một cách tổng thể, có thể nhận thấy rằng Trakai tuy chỉ có 600 năm tuổi nhưng là một trong số hiếm công trình lịch sử còn sót lại tại một quốc gia chịu nhiều tàn phá của chiến tranh. Có lẽ nhờ sự hiếm có ấy mà Trakai mới có giá trị đến như vậy.
Để đến được cổng thành lâu đài, tôi phải đi mem theo ven hồ và qua những con đường làng rất lãng mạn. Cũng nhờ đi qua các con đường này mà tôi có dịp khám phá một nét lịch sử thú vị về một cộng đồng người thiểu số có tên là Karaite. Vào thế kỷ 14 sau CN, quận công Lituania đã chiêu mộ người Karaite phục vụ cho việc phòng thủ lâu đài Trakai.
Sự thú vị ở đây nằm ở nguồn gốc và phong tục tập quán của bộ tộc này. Vào những thế kỷ đầu lúc khai sinh lập địa ra nước Lituania, có rất nhiều mối nguy hiểm đến từ xung quanh, đặc biệt là người tatar (tổ tiên của người Mông Cổ). Quận công Lituania chiêu mộ người Karaite từ bán đảo Crimea (nay thuộc Ukraina). Ông ta tin tưởng vào sự trung thành của họ vì đã từng sát cánh cùng họ trong một số cuộc chiến ở trên lãnh thổ Ukraina ngày nay. Người Karaite có tên gọi như vậy là vì họ theo đạo karaism, một nhánh của đạo do thái và có nguồn gốc từ nước Irak xa xôi. Kính nể sự tin tưởng của nhà vua và cũng do nhu cầu cần tìm một nơi trú chân bền vững lâu dài, rất nhiều người karaite định cư dọc biên giới phía bắc của Lituania với nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia.
Quay lại với lâu đài Trakai, tôi không mất quá nhiều thời gian để thăm hết một vòng bên trong, chắc chỉ hết tầm 1h. Đối với tôi, ấn tượng lớn nhất mà tôi có được là viện bảo tàng lịch sử, nằm ngay trong khuôn viên. Những hiện vật, đặc biệt là các trang phục truyền thống cho phép du khách có mường tượng cụ thể về cuộc sống của người dân Lituania thời trung cổ.
Hành trình khám phá trên lãnh thổ Lituania của tôi khá ngắn ngủi, chỉ nằm vỏn vẹn trong vòng 3 ngày. Sau khi thăm thủ đô Vilnius, tôi bắt xe quá giang qua thành phố Kaunas rồi tiến thẳng đến nước Latvia láng giềng. Tuy nhiên, do thời gian đi đường cũng như chờ đợi quá lâu, tôi phải tính đến nước ngủ tạm qua đêm tại một thị trấn Siauliai (cách Kaunas 140km về phía bắc) để hôm sau mới vượt biên giới. Tôi chủ ý chọn thị trấn này vì gần đó có một địa danh rất nổi tiếng : Kryziu Kalnas, « ngọn đồi thánh giá » theo tiếng Lituania.
Theo như người dân địa phương nói, những chiếc thánh giá đầu tiên được cắm ở đây từ thế kỷ 14 sau CN. Hàng trăm năm đã trôi qua và biết bao thế hệ đã hành hương từ phương xa đến đây cắm thánh giá để tỏ lòng sùng đạo. Dần dần, ngoài tính chất tôn giáo, Kryziu Kalnas còn trở thành nơi người ta đến cầu nguyện cho sự độc lập của quốc gia sẽ đến một ngày nào đó. Thật vậy, hãy nhìn vào quá khứ hẩm hiu của đất nước Lituania từ thế kỷ 18 là biết liền. Trong vòng 2 thế kỷ, quốc gia này biến mất khỏi bản đồ hành chính thế giới và trở thành lãnh thổ của sa hoàng Nga.
Đã có rất nhiều cuộc nổi dậy chống lại sự đô hộ của Nga, đặc biệt là vào cuối thế kỷ 19 và giai đoạn sau thế chiến thứ hai. Quân đội Nga đã thẳng tay đàn áp và giết hại rất nhiều người yêu nước. Để tỏ lòng kính trọng những người con hi sinh vì độc lập tự do, người dân Lituania đến đây cắm thánh giá để tưởng niệm. Truyền thống cứ thế tiếp diễn ngày này qua ngày khác. Ý chí dân tộc cành phát triển mạnh bao nhiêu thì người ta càng đến đây cắm thánh giá bấy nhiêu. Người Nga không ít lần hạ lệnh san bằng tất cả những cây thánh giá nhưng san phẳng thì lại mọc lại. Khi Liên Bang Nga sụp đổ, Lituania chính là một trong những quốc gia hạnh phúc nhất. Kẻ hàng xóm khó chịu đã cút đi, lời cầu nguyện của biết bao thế hệ tại Kryziu Kalnas đã thành hiện thực. Vì thế, nơi đây trở thành biểu tượng của ý chí dân tộc chống lại thế lực ngoại xâm.
Có thể nói, chỉ khi đặt chân đến đây, tôi mới thực sự thấu hiểu lòng căm thù của người Lituania đối với người Nga, có lẽ cũng không khác gì nhiều so với sự căm ghét của dân tộc Việt Nam với nước Trung Quốc. Chỉ có điều, người Nga có vẻ có nhiều dân tộc căm thù hơn người Trung Quốc. Ngoài Lituania, còn có Estonia, Latvia, Ba Lan, Cộng Hòa Séc, Romania, và còn có thể có một số quốc gia khác nữa. Theo tôi, Kryziu Kalnas là một bằng chứng hùng hồn đưa ra thê giới sự ghê tởm và đáng khinh thường đối với giới chóp bu Nga trong quá khứ.
Ngày nay, người ta ước tính có tổng cộng 60.000 chiếc thánh giá từ nhỏ đến to, từ 5cm đến 5m, bằng gỗ hay bằng kim loại. Chính nhờ địa danh này mà đất nước Lituania còn được mệnh danh là « xứ sở của những cây thánh giá ». Đi qua cả một rừng cây thánh giá, tôi có cảm giác như đang rơi vào cảnh phim kinh dị với những con ma cà rồng hay người sói. Cảm nhận tổng thể mà tôi có được ở đây chủ yếu thiên về tín ngưỡng nên tôi cũng khó có thể hiểu tại sao người Lituania lại tôn sùng nó như biểu tượng của chủ quyền dân tộc. Có lẽ phải là người sinh ra và lớn lên ở đây thì mới thấu hiểu được điều đó.
<<<CÒN TIẾP>>>
0 nhận xét:
Đăng nhận xét